YouTube Transcript:
Tiền tệ vận hành như thế nào?
Skip watching entire videos - get the full transcript, search for keywords, and copy with one click.
Share:
Video Transcript
View:
Hầu hết chúng ta đều được dạy từ nhỏ
rằng tiền bạc là thứ khó kiếm, rằng phải
nỗ lực học tập và làm việc cực lực cả
đời mới mong có được. Thế nhưng mỗi khi
khủng hoảng kinh tế ập đến, chúng ta lại
chứng kiến các ngân hàng trung ương
dường như có thể in ra hàng núi tiền một
cách dễ dàng đến khó tin. Điều này khơi
lên vô số câu hỏi tiền thực sự được tạo
ra từ đâu? Ai sẽ là người phải trả giá
cho những khoản tiền khổng lồ mới được
tạo ra này? Và quan trọng hơn cả, tất cả
những điều này có ý nghĩa gì đối với
cuộc sống của mỗi chúng ta? và tương lai
của nền kinh tế toàn cầu. Cuộc hành
trình vén màng bí ẩn về tiền tệ có thể
khởi đầu khá đơn giản nhưng càng đi sâu
chúng ta càng nhận ra sự phức tạp, thậm
chí là những điều tưởng chừng phi lý
đang vận hành ngay trong hệ thống mà
chúng ta là một phần của nó. Trong video
này chúng ta hãy cùng nhau khám phá sự
thật này
nha. Tiền vật chất phần nhỏ của bức
tranh kinh tế.
Khi nhắc đến tiền, hầu hết mọi người đều
hình dung đến hình ảnh những tờ tiền
giấy hay đồng xu kim loại, những vật thể
hữu hình có thể cầm được trên tay. Loại
tiền phổ biến này có tên gọi là tiền vật
chất và nó được sản xuất bởi các cơ quan
do chính phủ chỉ định, chẳng hạn như
cuộc đút tiền hoàng gia hoặc xưởng in
tiền quốc gia. Mặc dù quy trình sản xuất
được thực hiện bởi những tổ chức chuyên
môn, quyền kiểm soát cuối cùng vẫn nằm
trong tay cơ quan công quyền.
Bất ngờ thay, tiền vật chất lại chỉ
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng lượng
tiền đang lưu thông trong một nền kinh
tế. Trên thực tế, con số này thường chỉ
dao động từ 3% đến 8% tùy theo quốc gia.
Mục tiêu của việc in tiền mặt chủ yếu
nhằm đáp ứng yêu cầu thanh khoản từ phía
ngân hàng tư nhân. Khi một người dân
tiếp cận máy ATM và yêu cầu rút tiền, hệ
thống ngân hàng bắt buộc phải có đủ tiền
mặt để phục vụ cho nhu cầu
này. Quá trình sản xuất tiền cũng tiết
lộ một khía cạnh ít ai ngờ. Chi phí để
in ra một tờ tiền thường rất thấp, ví dụ
chỉ cần khoảng ba xu để in một tờ mệnh
giá 10 đô la Mỹ. Điều đó tạo ra một
khoản lợi nhuận cho mỗi tờ tiền được
phát hành. Và phần chênh lệch đó được
gọi là lợi tức đút tiền seniorage.
Khoảng lợi tức này sẽ chạy vào ngân sách
nhà nước và có thể giúp chính phủ giảm
nhẹ gánh nặng thuế cho người
dân. Từ đây, một câu hỏi tự nhiên được
đặt ra. Nếu tiên vật chất mang lại lợi
ích như vậy, tại sao chính phủ không in
thật nhiều để giải quyết những nhu cầu
tài chính? Câu trả lời nằm ở vai trò
giới hạn của chính trị trong việc tạo
tiền. Nếu những người nắm quyền có thể
thoải mái in tiền để thực hiện các cam
kết tranh cử hoặc tài trợ cho các dự án
lớn, hệ quả sẽ là sự mất giá không thể
kiểm soát của đồng tiền. Khi lượng tiền
cung ứng tăng quá nhanh, giá trị mỗi đơn
vị tiền sẽ giảm xuống do mất cân bằng
với nguồn hàng hóa và dịch vụ thực tế,
từ đó dẫn đến lạm phát.
Trong kịch bản xấu nhất, làm phát vượt
khỏi tầm kiểm soát sẽ trở thành làm phát
vi mã khi đồng tiền mất giá quá nhanh
đến mức chính người dân không còn tin
tưởng vào sức mua của nó nữa. Hãy hình
dung một người nắm trong tay 1 triệu đô
la nhưng chỉ đủ để mua một quả táo. Đó
không còn là tiền mà là một mảnh giấy
không hơn không kém. Nhưng tờ tiền ấy
không còn được dùng để mua bán và được
tái chế thành túi sách hoặc tranh vẽ như
đã từng xảy ra tại Zimbabwe, Argentina
hay Venezuela.
Tiền vốn là một thức đo giá trị ổn định
cho nền kinh tế nhưng tính chất đó chỉ
có hiệu lực khi tiền được tạo ra một
cách cẩn trọng. Trong suốt nhiều thiên
niên kỷ vàng từng giữ vai trò như một
cái neo đảm bảo cho giá trị của tiền.
Buộc các chính phủ phải có sự cân nhắc
khi phát hành thêm tiền. Nhưng sự ổn
định đó chấm dứt vào năm 1971 khi Tổng
thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố dừng chế
độ bản bị vàng, nghĩa là đô la Mỹ không
còn được chuyển đổi sang bàn theo một
mức giá cố định. Kể từ đó, bản thân tiền
trở nên co giãng, tức giá trị của nó phụ
thuộc vào lòng tin hơn là vật chất cụ
thể như
vàng. Cho đồng đô la Mỹ là đơn vị tiền
dự trữ toàn cầu, quyết định của Hoa Kỳ
đã kéo theo ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hệ
thống tài chính toàn cầu. Mặc dù các
chính trị gia không trực tiếp in tiền
nữa nhưng ảnh hưởng gián tiếp của họ đến
quy trình tạo tiền vẫn hiện diện và điều
đó gây ra những hệ lụy kinh tế không thể
bỏ
qua. Trong bức tranh toàn cảnh, tiền vật
chất chỉ là phần nổi của tảng băng với
việc chỉ chiếm từ 3% đến 8% tổng lượng
tiền. Câu hỏi đáng lưu ý là phần còn lại
đến từ đâu? Ai có quyền tạo ra nó? Đây
chính là cánh cửa dẫn đến một thế giới
khác nơi ngân hàng tư nhân nắm vai trò
trung tâm.
Từ nhỏ chúng ta được dạy rằng muốn có
tiền phải học hành chăm chỉ, làm việc
cực lực. Nhưng khi khủng hoảng xảy ra,
Ngân hàng Trung ương chỉ cần in tiền.
Vậy rốt cuộc tiền là gì? Ai được quyền
tạo ra nó? Và tại sao những câu chuyện
như vậy lại luôn bị kể một cách mơ hồ và
khó hiểu? Câu trả lời là bởi hệ thống
tiền tệ hiện đại phức tạp đến mức phân
lớn chúng ta không được trang bị kiến
thức để hiểu nó. Điều này không chỉ
khiến chúng ta bị động trong các quyết
định tài chính cá nhân mà còn dễ trở
thành nạn nhân hợp pháp của những chính
sách kinh tế lớn. Nhưng không phải ai
cũng có thời gian để nghi ngẫm hết những
cuốn sách như kinh tế học vĩ mô hay của
cải của các quốc gia. Đó là lý do sách
Tin gọn ra đời. Ứng dụng giúp bạn tiếp
cận những tư duy sâu sắc, phức tạp nhất
theo cách dễ hiểu, nhanh gọn và cực kỳ
hiệu quả. Chỉ với 15 phút mỗi ngày, bạn
có thể nắm được những nguyên lý cốt lõi
về tài chính, kinh tế học, đầu tư và
tiền tệ được đúc kết từ những cuốn sách
hay nhất thế giới. Bạn sẽ hiểu không chỉ
tiền đến từ đâu mà còn biết cách làm chủ
nó thay vì để nó chi phối cuộc sống
mình. Thế giới vận hành theo cách của
người hiểu biết. Bạn có thể tải ứng dụng
tại website schtinggong.com hoặc tìm
kiếm trên App Store và ché còn bây giờ
thì chúng ta hãy tiếp tục nội dung chính
của video để cùng tìm hiểu một loại tiền
mới do Ngân hàng tư nhân nắm
giữ. Ngân hàng tư nhân và tiền tệ dựa
trên
nợ. Trong thế giới hiện đại, phần lớn
tiền tệ mà chúng ta sử dụng không đến từ
ngân hàng trung ương hay chính phủ mà
được tạo ra bởi hệ thống ngân hàng tư
nhân. Trên thực tế, khoảng 97% tổng quân
tiền tại các nền kinh tế phát triển đều
bắt nguồn từ đây. Điều này biến hệ thống
tiền tệ thành một cấu trúc phần lớn được
tư nhân hóa và vận hành trong không gian
kỹ thuật số. Đó là một hệ quả của một
quá trình phát triển lâu dài. Trong bối
cảnh hệ thống ngân hàng phải liên tục
tìm cách duy trì sự ổn định và kiểm soát
dòng tiền, nhất là sau các cuộc khủng
hoảng ngân hàng nơi người dân độ xô đi
rút tiền cùng lúc nhưng ngân hàng lại
thiếu tiền mặt.
Khi phải đối mặt với rủi ro sụp đổ do
không thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản,
các ngân hàng đã vận động hành lang và
thành công trong việc thuyết phục các
nhà làm luật, trao cho họ một đặc quyền,
quyền tạo ra tiền trên cơ sở nợ, nhiều
hơn số tiền thực sự họ đang nắm giữ. Từ
đây, một loại tiền mới hình thành tiền
kỹ thuật số dựa trên nợ.
Cấu trúc pháp lý tạo nên móng cho điều
này có từ lâu đời. Khi vào năm 1704,
Quốc hội Anh thông qua đạo luật về giới
hạn trả tiền. Đó là văn bản ghi nhận một
lời hứa hoàn trả số tiền đã vay và luật
pháp công nhận văn bản đó có giá trị
tương đương với số tiền ghi trên đó.
Chuyển sang thời hiện đại, hình thức cam
kết này biến thành những dòng số liệu
điện tử mà ngày nay chúng ta gọi là nợ.
Điều thiết yếu trong hệ thống này là
quyền hạn to lớn mà giấy phép ngân hàng
đem lại. Khi một cá nhân hoặc tổ chức
đến ngân hàng để xin vay tiền, ngân hàng
không rút tiền từ một coi dự trữ nào hay
lấy từ khoản tiết kiệm của khách hàng
khác. Thay vào đó, họ tạo ra tiền mới
bằng thao tác kế toán. Trong hệ thống sổ
sách kế toán kép, một bên ghi nhận khoản
tiền gửi mới được cung cấp cho người
vay, còn bên kia ghi lại một khoản nợi
tương ứng, tức lời hứa hoàn trả tiền có
tính cả lãi suất. Từ đó tiền được đưa
vào hệ thống không phải từ tích lũy mà
từ kỳ vọng và tín
nhiệm. Ví dụ khi có người đi mua một căn
nhà trị giá 500.000 đô la và vay đúng số
tiền này từ ngân hàng. Điều xảy ra là
ngân hàng tạo ra 500.000 đô la trong tài
khoản của người vay và đồng thời ghi
nhận một khoản phải thu 500.000 đô la.
Lời hứa của người vay sẽ trả lại kèm lã
ấy. Khi số tiền ấy được chuyển cho chủ
nhà và lưu chuyển trong hệ thống kinh tế
rộng hơn, nó trở thành một phần của
nguồn tiền đang lưu thông. Điều này dẫn
đến một thực tế rằng trong hệ thống hiện
tại tăng trưởng kinh tế dường như gắn
liền với việc tạo thêm
nợ. Nợ và tiền trong khuôn khổ tài chính
hiện tại đơn giản là những mặt khác nhau
của cùng một bản chất. Nó là khoản nợ
đối với người vay nhưng lại là một tài
sản đối với người cho vay. Bản thân giao
dịch không hề dựa vào tiền mặt có sẵn mà
là sự sáng tạo của tín dụng bởi ngân
hàng tư nhân. Việc tạo tiền kỹ thuật số
nhờ nợ không những là một đặc quyền mà
còn là cơ chế sinh lời chính của ngân
hàng. Lợi tức thu được từ lãi suất các
khoản vay chính là phần lợi nhuận lớn
nhất kể cả khi khoản vay đã được hoàn
trả và khoảng nợ ban đầu đã biến
mất. Thị trường bất động sản luôn là nơi
hấp dẫn nhất để thực hiện việc tạo tiền
dựa trên nợ. Lý do là bởi bất động sản,
đặc biệt là nhà ở được xem như là tài
sản thế chấp ít rủi ro hơn và có tiềm
năng sinh lời lớn. Trong trường hợp
người vay mất khả năng chi trả, ngân
hàng có thể thu hồi tài sản tức là căn
nhà. Bởi vậy, các ngân hàng đã tập trung
đáng kể vào lĩnh vực địa ốc, tạo nên
lượng lớn tiền mới dựa trên thế chấp nhà
đất. Khi việc cho vay bất động sản được
ưu tiên đi kèm với nhu cầu ngày càng
tăng, giá nhà bắt đầu tăng vọt để người
dân vào tình thế phải vay nhiều hơn để
mua tài sản mà họ vốn không đủ khả năng
chi
trả. Hậu quả sau nhiều thập kỹ là sự
hình thành bong bóng bất động sản quy mô
lớn tại nhiều quốc gia. Kinh tế rơi vào
tình trạng hiện nợ, cá nhân, gia đình và
tổ chức đều gánh những khoản nợ vượt xa
khả năng tài chính của họ để tiếp tục
hòa vào dòng chảy tiêu dùng và đầu tư.
Nhưng tiền không chỉ được tạo ra qua
hình thức vay mượn, khi ai đó gửi tiền
vào ngân hàng, khoản tiền mặt đó không
còn thực sự thuộc quyền sở hữu của họ
nữa. Luật pháp cho phép ngân hàng sở hữu
số tiền đó và họ chỉ có một nghĩa vụ,
hoặc trả tiền khi khách hàng yêu cầu.
Theo mô hình truyền thống, ngân hàng giữ
lại một phần nhỏ của khoản tiền gửi làm
dự trữ bắt buộc thường là 10%. Phần còn
lại sẽ được cho người khác vay. Người đó
lại có thể gửi số tiền đó cho một ngân
hàng khác và ngân hàng đó lại có thể cho
vay 90% cứ thế mà tiếp diễn. Quá trình
này lặp đi lặp lại nhiều lần làm cho chỉ
một khoảng tiền gửi ban đầu cũng có thể
tạo ra lượng lớn tiền lưu thông trong
nền kinh tế. Trong một số ví dụ, 100 đô
la có thể sinh ra đến 1000 đô. Đây chính
là cơ chế cho vay dự trữ phân đoạn. Hiểu
đơn giản là ngân hàng giữ một phần nhỏ
và tái sử dụng phần lớn tiền gửi dưới
dạng cho
vay. Thế nhưng sau ngày 26 tháng năm
2020, mọi thứ thay đổi khi Cục Diệu trữ
Liên ban Hoa Kỳ Fed loại bỏ hoàn toàn
yêu cầu dự trữ bắt buộc. Các tổ chức lưu
ký không còn cần phải giữ lại bất kỳ
phần trăm nào của tiền gửi để đảm bảo an
toàn. Kết quả là hệ thống ngân hàng có
thể tạo ra lượng tiền gần như không giới
hạn chỉ dựa trên sổ sách kế toán. Trong
khi điều này có thể tăng thanh khoản, nó
cũng tiìm ẩn rủi ro rất lớn, nhất là khi
các ngân hàng sử dụng tiền gửi vào mục
đích đầu cơ trên thị trường tài
chính. Tiền gửi không những bị cho vay
mà còn được các ngân hàng sử dụng để đầu
tư vào các sản phẩm tài chính phức tạp
như phái sinh và chứng khoán. Đây là
những hợp đồng đặt cược lên khả năng
biến động giá trị của tài sản trong
tương lai. Những công cụ này đã trở nên
phổ biến tới mức thị trường phái sinh
toàn cầu được ước tính vượt quá 1 triệu
tỷ đô la, con số cao hơn gấp 10 lần tổng
quy mô của nền kinh tế thế
giới. Trong thời kỳ kinh tế bùng nổ,
việc vay nợ được xem là yếu tố thúc đẩy
nền kinh tế khi người tiêu dùng chi tiêu
cho những thứ vượt quá khả năng thực tế.
Nhưng đến một thời điểm người dân không
thể vay thêm và cũng không thể trả nợ
cũ. Tình trạng vỡ nợ lan rộng làm các
ngân hàng ngừng cho vay và nền kinh tế
chẩng
lại. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
là hệ quả rõ nét nhất của cơ chế này.
Đây được coi là khoảnh khắc kinh tế thực
sự bắt đầu suy yếu nghiêm trọng. Các
ngân hàng lúc đó đã trở thành những tổ
chức quá lớn, có mối liên kết quá sâu và
giữ vai trò then chốt trong việc cung
cấp tiền. Nếu chúng sụp đổ, hậu quả
không chỉ dừng ở việc phá sản mà còn có
thể gây ra sự sụp đổ toàn diện trong hệ
thống tiền tệ. Do đó, chính phủ đã can
thiệp và ngân hàng trung ương trở thành
cứu cánh cuối cùng. Tiền được tạo ra để
giải cứu các tổ chức bị đe dọa. Dù về
mặt lý thuyết, các khoản vay từ Ngân
hàng Trung ương cũng đều phải hoàn trả.
Người phải trả khoản tiền đó chính là
người dân thông qua
thuế. Hệ thống được xây dựng sao cho
chính phủ không thực sự hỗ trợ dân chúng
mà dân chúng mới là người hậu thuẫn cho
chính phủ thông qua các khoản thuế và
thương mại. Số tiền thu về sẽ được dùng
để thanh toán các khoản vay từ ngân hàng
trung ương kèm theo lãi suất. Như vậy
đổi ra ban đầu từ phía ngân hàng tư nhân
rốt cuộc lại chuyển sang người đóng
thuế. Một khi ngân hàng trung ương nắm
quyền tạo ra tiền để cứu trợ các ngân
hàng tư nhân thì điều này làm phát sinh
một rủi ro đạo đức lớn. Các ngân hàng
biết rằng nếu thất bại họ sẽ vẫn được
cứu và mọi hệ quả sẽ không do họ gánh
chịu. Chính thực tế này cho thấy khối
ngân hàng tư nhân có quyền to lớn trong
tạo tiền và chi tiêu tiền gửi của người
dân. Khi ngân hàng đủ lớn để không thể
sụp đổ, quyền lực của họ vượt xa vai trò
một tổ chức tài chính mà trở thành động
lực then chốt của toàn bộ nền kinh tế.
Kể từ năm 2008, các quốc gia phát triển
đã trải qua giai đoạn kéo dài hơn một
thập kỷ trong mô hình sự sống nhân tạo,
tức là lãi suất cực thấp, nối lỏng định
lượng và các biện pháp kích cầu đem lại
lợi ích ngắn hạn nhưng chứa đựng rủi ro
lâu dài. Sự can thiệp không giới hạn này
vào thị trường không những khuyến khích
hành vi rủi ro mà còn đẩy chi phí về
phía tương lai, về phía người dân và các
thế hệ kế
tiếp. Toàn bộ cơ cấu tiền tệ ngày nay
được đặt trên nền tảng dễ biến động.
Việc tạo tiền phụ thuộc gần như hoàn
toàn vào nợ và kỳ vọng hoà trả. Tuy tiền
trong ví có vẻ là của bạn nhưng quyền
tạo ra nó lại không nằm ở bạn mà nằm
trong tay một hệ thống phức tạp được
kiểm soát bởi ngân hàng và các cơ quan
tài chính. Và tất cả bắt đầu từ một lời
hứa được viết trên giấy này đã chuyển
sang dạng số mà lời hứa ấy một khi không
thể thực hiện sẽ khiến cả hệ thống chao
đảo. Tiền kỹ thuật số của ngân hàng
trung
ương. Một trong những hình thức tạo tiền
gây ngạc nhiên nhất trong lịch sử hiện
đại là nới lỏng định lượng hay còn gọi
là QE quantitative easing. Phương pháp
này xuất hiện lần đầu tại Nhật Bản vào
năm 1989 trong bối cảnh quốc gia này đối
mặt khủng hoảng tay chính. Nhưng phải
đến năm 2008 khi cuộc khủng hoảng nhà
đất lan rộng ra toàn cầu, nó mới trở
thành một công cụ chính sách tiền tệ phổ
biến dưới tay cục dự trữ liên ban Mỹ
Fed. Về bản chất, QI là quá trình ngân
hàng trung ương tạo ra tiền để cung cấp
nguồn vốn trực tiếp cho hệ thống ngân
hàng, các doanh nghiệp lớn và gần đây là
cả công chúng. Cách làm này được coi là
một giải pháp khẩn cấp để cứu nền kinh
tế trong thời điểm khó khăn tột độ. Đó
không phải là kiểu cứu trợ đến từ nguồn
thu ngân sách hay thuế mà là việc tạo ra
tiền mới chưa từng tồn tại trong hệ
thống. Tiền này sau đó được bơm vào nền
kinh tế thông qua hình thức mua tài sản
tài chính, đặc biệt là trái
phiếu. Khi khủng hoảng tài chính xảy ra
năm 2008, Mỹ đã triển khai gói Qi đầu
tiên trị giá 700 tỷ đô la. Tại thời điểm
đó, động thái này tạo ra làng sóng tranh
cãi dữ dội. Nhiều người cho rằng việc
giải cứu với ngân hàng Fố là điều cần
thiết nếu muốn tránh thảm họa kinh tế
lan trọng. Theo kế hoạch của Tổng thống
Mỹ, Bộ Tài chính Hoa Kỳ được phép mua
lại các khoản nợ xấu bao gồm rất nhiều
khoản bay thế chấp dưới chuẩn từ tay các
tổ chức tài chính. Những khoản nợ rộ đo
đó sau đó lại được chuyển hóa thành gánh
nặng cho người dân vì chính phủ Mỹ phải
nâng giới hạn nợ quốc gia từ 10,6 lên
11,3.000 ngì tỷ đô la để trang
trải. Ban đầu đây được xem như một biện
pháp khẩn cấp chỉ thực hiện một lần
nhưng trong suốt thập kỷ sau đó phé cho
thấy họ không thể rút lại chính sách
này. Một sự thật gây sốc là từ năm
1776 thời điểm thành lập nước Mỹ cho đến
2008 quốc gia này mới tích lũy gần 1000
tỷ đô la nợ. Thế nhưng chỉ 6 năm sau vào
2014 con số đó đã tăng bọt lên 4,4.000
tỷ. Và khi đại dịch Covid-19 buông phát
thì chỉ trong 3 tháng Fé tiếp tục đẩy
thêm 3000 tỷ đô la vào hệ thống. Hiện
tại ngân hàng trung ương Mỹ có thể bơm
hàng trăm tỷ đô la vào nền kinh tế chỉ
trong vài
giờ. Dù vậy thì hiệu quả của việc bơm
tiền hàng loạt này đang giảm dần. Thứ
cho phép tất cả điều này diễn ra chính
là việc Cục Dựa trữ Liên bang Mỹ tiền tệ
hóa nợ, tạo ra tiền mới để mua lại nợ
của chính phủ. Quá trình này được thực
hiện thông qua thị trường trái phiếu dù
ít được công chúng chú ý hơn thị trường
chứng khoán, quy mô thị trường trái
phiếu thực tế còn lớn hơn rất nhiều và
đóng vai trò như huyết mạch, tài chính
toàn
cầu. Về cơ bản thì trái phiếu là công cụ
để chính phủ hoặc doanh nghiệp vay tiền
từ công chúng hoặc tổ chức tài chính.
Khi ngân hàng trung ương muốn bơm tiền,
họ không sử dụng quỹ tiết kiệm như người
dân mà đơn giản là tạo ra tiền mới để
mua trái phiếu này. Vậy liệu hệ thống đó
có điểm yếu hay không? Một tài liệu từ
Ngân hàng Trung ương Châu Âu năm 2016
khẳng định ngân hàng Trung ương không
thể phá sản vì họ có quyền tạo ra nhiều
tiền hơn bất cứ lúc nào họ
cần. Hiệu ứng kéo theo là ngày nay chính
vụ các nước đang bị mắt kẹt. Họ nợ hàng
nghìn tỷ đô la nhưng lại không có nhiều
phương án huy động tiền ngoài việc tăng
thuế. Điều chính trị rất khó khả thi. Kỳ
vọng của nhà hoạch định là lượng tiền
mới bơm ra sẽ kích thích nền kinh tế hồi
sinh sau một hệ quả khác đang phát sinh.
Khi ngân hàng trung ương mua trái phiếu,
đồng nghĩa với việc họ sở hữu tài sản
phát hành ra từ chính phủ và tập đoàn,
họ dần trở thành cổ đông lớn nhất của
toàn bộ nền kinh tế.
Ở Nhật Bản, bản cân đối kế toán của ngân
hàng Trung ương hiện còn lớn hơn GDP
quốc gia, thậm chí họ nắm giữ tới 80%
tổng giá trị thị trường chứng khoán Nhật
Bản. Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ với
phương thức tương tự đã sở hữu 90 tỷ đô
la cổ phiếu của các công ty lớn của Mỹ
như Apple, Microsoft, Google hay Amazon.
Chuyện những ngân hàng trung ương này có
thể tạo ra tiền từ hư không, sau đó đi
mua các tài sản có giá trị thực là điều
khiến nhiều người phải giật mình. Họ
không thể phá sản nhưng có thể gom lấy
các tài sản tốt nhất mà thế giới sản
sinh. Điều này gây ra những tác động hệ
trọng đến tính minh bạch của thị trường
và sự công bằng về quyền sở hữu tài sản
trong xã
hội. Tác động của việc bơm tiền vô tội
vạ đã làm biến dạng thị trường tài
chính. Trước đây, thị trường chứng khoán
từng được xem như phong vũ biểu phản ánh
tình hình kinh tế. Ngày nay, mối liên hệ
đó dường như đã biến mất hoàn toàn. Thị
trường chứng khoán Mỹ giờ có giá trị gần
gấp đôi toàn bộ GDP quốc gia, một con số
khiến nhiều chuyên gia sửng sốt. Đó cũng
là lý do vì sao vào tháng 0 n 2020 khi
nước Mỹ ghi nhận tới 30 triệu người lao
động thất nghiệp, chỉ số chứng khoán lại
tăng mạnh nhất kể từ
1987. Với hàng nghìn tỷ đô la mới được
tạo ra, Ngân hàng Trung ương cung cấp
vốn với lãi suất gần như bằng 0 cho các
tổ chức lớn, chủ yếu là các ngân hàng tư
nhân và quỹ đầu tư. Dòng tiền giá rẻ đó
không chảy vào nền kinh tế thực sự để
tạo ra việc làm hay khôi phục sản xuất
mà đổ vào thị trường cổ phiếu khiến chỉ
số tăng dù cuộc sống người dân thường
trì trệ hoặc là tồi tệ
hơn. Nguồn gốc của bất bình đẳng giao
nghèo. Có một câu hỏi thường trực vì sao
khi tiền được in ra hàng loạt lạm phát
không xuất hiện rõ rệt ngay trong đời
sống? Câu trả lời nằm ở chỗ lạm phát
thực tế đã hình thành nhưng nó đang ẩn
mình và gây ra hậu quả theo dạng khác.
Trong bức tranh kinh tế toàn cầu gần
đây, lạm phát không bộc lộ rõ qua giá
các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày mà nổi
bật hơn ở sự tăng vọt của giá nhà đất và
thị trường chứng khoán. Lượng tiền được
bơm vào hệ thống tài chính thay vì luân
chuyển vào nền kinh tế thực lại chảy
mạnh vào các loại tài sản để giá trị của
chúng là một nhóm thiểu số nắm giữ nhiều
cổ phiếu và bất động sản trở nên giàu có
một cách đột biến. Trong khi đó, phần
lớn người dân không được hưởng lợi gì từ
quá trình này. Khoảng cách giao nghèo
ngày càng lớn dần. Nhiều người nhận ra
thực trạng ấy nhưng không mấy ai hiểu rõ
ngọn
nguồn. Nguồn gốc của sự phân hóa bắt đầu
hình thành từ những năm 1980 ở phương
Tây với sự trổ dệ của chủ nghĩa tự do
mới neoliberalism. Từ thời điểm đó, tài
sản của tân lớp giàu gắn chặt với tăng
trưởng của thị trường chứng khoán. Đặc
biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính năm
2008, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng
sống nhờ trợ thở, thị trường chứng khoán
lại càng phụ thuộc nhiều hơn vào các
quyết định và biện pháp từ Cục Diệu trữu
liên ban Mỹ Fé.
Lượng tiền được in ra càng lớn, thị
trường càng tăng điểm, tài sản của người
giàu theo đó cũng vinh to. Chỉ tính
riêng từ 1980, tài sản của họ đã tăng
trưởng đến khoảng
420%. Một trong những cơ chế góp phần
tạo ra sự chênh lệch này là hiệu ứng
Cantilon. Khi ngân hàng trung ương in
tiền, nhóm người đầu tiên nhận được số
tiền mới có thể duy trì hoặc nâng cao
mức sống của mình. Trong khi những người
nhận được sau đó thì đang phải đối mặt
với hậu quả của lạm phát bắt đầu lan
rộng. Thực ra điều đáng lo ngại hơn lại
nằm ở tương lai gần khi người giàu quyết
định bán dần cổ phiếu và bất động sản để
chuyển sang những tài sản khác trong
thời kỳ khó khăn. Khi ấy vận tốc của
tiền tức tốc độ luân chuyển tiền tệ
trong nền kinh tế bắt đầu gia tăng, đánh
dấu thời điểm làm phát thực sự có thể
bùng
phát. Ngân hàng Trung ương dù không có
tiền tiết kiệm vẫn có khả năng tạo ra
lượng tiền khổng lồ thông qua việc mua
trái phiếu chính phủ. Trái phiếu về bản
chất là một lời hứa rằng chính phủ sẽ
hoàn lại tiền cùng lãi suất trong tương
lai. Khoảng tiền ấy cuối cùng sẽ được
chi trả bởi các thế hệ công dân sau dưới
hình thức thuế hoặc là qua việc chấp
nhận mức lạm phát cao hơn. Giữa thực
trạng ấy, câu hỏi đặt ra là liệu việc in
tiền có thực sự là một giải pháp lâu dài
hay chỉ đang tạm thời che đi những vấn
đề sâu xa
hơn? Khủng hoảng niềm tin và những lối
thoát khả dĩ.
Khủng hoảng kinh tế kéo dài những năm
gần đây đã buộc các chính phủ phải hành
động thường bằng cách in tiền để hỗ trợ
những người gặp khó khăn. Mặc dù hành
động đó mang lại sự hỗ trợ thức thời
song nhiều nhà phân tích cho rằng đây
chỉ là một biện pháp tinh thế, một hình
thức băng bó tạm thời cho những vết
thương sâu hơn trong cấu trúc của nền
kinh tế toàn cầu. Theo họ, những giải
pháp thực sự cần được thực hiện từ nhiều
thập kỷ trước.
Thay vì đẩy mạnh các hoạt động đầu cơ
vào thị trường bất động sản hay các công
cụ tài chính mang tính may đuổi, xã hội
lẽ ra nên tập trung vào việc tạo ra của
cải thực thông qua sản xuất, giáo dục,
đội mới sáng tạo và nghiên cứu phát
triển. Ngân hàng thay vì hướng dòng vốn
vào bất động sản và đồ cơ tài chính, lẽ
ra nên ưu tiên cho vay vào những lĩnh
vực có khả năng tạo ra giá trị thực như
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án
đổi mới hay những sáng kiến công nghệ.
Bạn hãy hình dung một thế giới mà những
khoản đầu tư khổng lồ thay vì đổ vào các
bong bóng tài sản là được rót vào nghiên
cứu, phát minh và sản xuất. Dù tiềm ẩn
rủi ro ngắn hạn đối với ngân hàng nhưng
lợi ích dài hạn sẽ là một nền kinh tế
năng động hơn, tạo ra nhiều công việc
hơn, đội mới sâu rộng hơn và đời sống
người dân được nâng cao
hơn. Việc một quốc gia tạo ra của cải
không chỉ mang lại suất sản xuất lớn hơn
mà còn giúp chính phủ có thêm nguồn thu
từ thuế một cách tự nhiên mà không cần
phải tăng thuế suất. Một xã hội có nền
tảng kinh tế vững chắc và ít phụ thuộc
vào nợ sẽ có khả năng ứng phó tốt hơn
với khủng hoảng. Thực tế cho thấy nếu
đầu tư đúng đắng từ sớm, xã hội ngày nay
có thể có một lượng tiết kiệm đáng kể
giống như thời điểm cuối thế kỷ 20 mà
nhiều gia đình và doanh nghiệp phương
Tây vẫn còn ghi
nhớ. Thế nhưng hiện tại toàn thế giới
phải đối mặt với di chứng của một hệ
thống tài chính quá mỏng manh. Và trong
bối cảnh ấy người ta tự hỏi điều gì đang
chờ đón phía trước. Một số dự báo rằng
chúng ta đang tiến gần đến một thời kỳ
bấp binh hơn bao giờ hết. nơi mà lạm
phát không ngừng leo than trong khi tăng
trưởng kinh tế thì lại tri trệ. Một hiện
tượng được gọi là đình lạm từng xảy ra
vào những năm 1970 nhưng lần này tình
hình có thể nghiêm trọng hơn vì lượng nợ
khổng lồ cộng thêm sự bất ổn trong xã
hội. Có ý kiến cho rằng tàn cầu sẽ mất
dần đi sự tin tưởng vào đồng đô la Mỹ.
Đồng tiền lâu nay vẫn được xem là trụ
cột của hệ thống tài chính thế giới. Tuy
vậy, bên cạnh đó cũng xuất hiện một
trường phái tư duy khác. Một số nhà kinh
tế cho rằng trong một thế giới bất ổn
như hiện nay, đồng đô la có thể vẫn tăng
giá trị bởi nó được xem là nơi trú ẩn an
toàn nhất trong tổng thể các nền kinh tế
yếu kém hoặc đang suy yếu. Đó là ý tưởng
cốt lõi trong lý thuyết milek đô la ví
von bon rằng đồng đô la như ly sữa cuối
cùng mà ai cũng muốn hút về phần mình
trong lúc khang hiếm.
Giữa lúc đồng tiền truyền thống dần mất
đi niềm tin, một số người hướng đến
những giải pháp thay thế, có ý kiến đặt
kỳ vọng vào tiền kỹ thuật số ổn định
Stable CS với tiềm năng mang lại một hệ
thống thanh toán minh bạch và hiệu quả
hơn. Cũng có người tin vào cách tiếp cận
của lý thuyết tiền tệ hiện đại Modern
Monetary Theory MMT với lập luận rằng
chính phủ không cần thiết phải hoàn trả
toàn bộ số nợ mà chỉ cần đảm bảo khả
năng trả lãi, miễn là quốc gia vẫn duy
trì được sản xuất hàng hóa. Đây là một ý
tưởng đầy tranh cãi bởi nó chưa từng
được áp dụng ở quy mô lớn. và có vẻ như
cũng chỉ là một nước cờ rủi ro khác
trong danh sách dài những giải pháp chưa
kiểm
chứng. Thực tế thì ở một vài nơi trên
thế giới, người dân đã chủ động tìm
hướng đi mới. Từ một thị trấn nhỏ ở Ý
đến một vài cộng đồng ở Venezuela đã có
những nỗ lực phát hành tiền tệ địa
phương nhằm tự chủ kinh tế. Dù quy mô
còn nhỏ, những bước đi này cho thấy mong
muốn tự xây dựng một khuôn khổ tài chính
mới, vượt ra khỏi sự lệ thuộc và hệ
thống tiền tệ toàn cầu, ẩn chứa nhiều
điểm
yếu. Không ai có thể đưa ra câu trả lời
chính xác cho tình hình hiện nay, ngay
cả các chuyên gia cũng bất đồng quan
điểm và chính điều đó đã khiến cho bức
tranh kinh tế càng trở nên khó đoán định
hơn. Một điểm sáng tiềm năng nằm ở những
cải cách có thể phát sinh từ chính khủng
hoảng này. Bởi trong lịch sử, nhiều đột
phá lớn đã ra đời từ những thời điểm khó
khăn nhất.
Về phía cá nhân của chúng ta, giải pháp
không nhất thiết phải là những động thái
đầy kịch tính. Đó có thể chỉ là việc suy
nghĩ cẩn trọng hơn về tài sản mà mình
đang sở hữu. Một số người lựa chọn giữ
vàng thứ kim loại quý không thể được in
ra bởi bất kỳ ngân hàng trung ương
nào. Với người trẻ tuổi, tiền điện tử
trở thành một hướng đi hấp dẫn. Khi công
nghệ blockchain ngày càng được công
nhận, một số chính phủ và ngân hàng lớn
bắt đầu có thái độ nghiêm túc hơn đối
với lĩnh vực này với cái nhìn dài hạn
rằng tiền mã hóa có thể là một phần
trong tương lai của tài chính toàn cầu.
Còn với người có tư duy sáng tạo và mạo
hiểm, việc nghiên cứu các tài sản có thể
được lợi từ chính sách của các ngân hàng
trung ương là một lựa chọn khác, một
kiểu chơi trò chơi của thị trường với
chính những tổ chức tạo ra luật
chơi. Rốt cuộc thì trong giai đoạn nhiều
biến đoạn như hiện nay, mỗi cá nhân cần
tự mình suy xét và tìm hiểu hệ thống tài
chính hiện tại có vẻ như đã trở nên rối
rắm và thiếu hiệu quả đến mức nhiều
người không còn tin được vào tính bền
vững của nó nữa. Từ lâu cấu trúc tiền tệ
được duy trì như một thực thể vô hình
không bị chất vấn. Chỉ đến khi khủng
hoảng bung phát, mọi ánh mắt mới đổi dồn
về những biểu hiện bề mặt, lạm phát,
thất nghiệp, khủng hoảng nợ mà hiếm ai
nhìn sâu hơn vào cội nguồn thật sự.
Bên dưới những biểu hiện ấy là một sự
kết hợp nguy hiểm của hệ thống tài chính
dựa trên nợ, quá trình tài chính hóa cực
độ, rủi ro đạo đức của các tổ chức lớn
cộng với hiệu ứng Cantilon, hiện tượng
khiến đồng tiền mới được phân phối không
đồng đều, làm gia tăng chênh lệch giàu
nghèo. Tất cả những điều này đã đẩy hệ
thống đến bờ vực của sự mong manh khiến
niềm tin một trong những thành phần
thiết yếu nhất của kinh tế thị trường
này đang bị lung lay nghiêm trọng. Cảm
ơn bạn đã dành thời gian theo dõi video
này. Nếu thấy video này hữu ích, hãy để
lại bình luận bên dưới và xem thêm các
video khác trên kênh để ủng hộ team nhé.
Xin chào và hẹn gặp lại trong video tiếp
theo.
Click on any text or timestamp to jump to that moment in the video
Share:
Most transcripts ready in under 5 seconds
One-Click Copy125+ LanguagesSearch ContentJump to Timestamps
Paste YouTube URL
Enter any YouTube video link to get the full transcript
Transcript Extraction Form
Most transcripts ready in under 5 seconds
Get Our Chrome Extension
Get transcripts instantly without leaving YouTube. Install our Chrome extension for one-click access to any video's transcript directly on the watch page.
Works with YouTube, Coursera, Udemy and more educational platforms
Get Instant Transcripts: Just Edit the Domain in Your Address Bar!
YouTube
←
→
↻
https://www.youtube.com/watch?v=UF8uR6Z6KLc
YoutubeToText
←
→
↻
https://youtubetotext.net/watch?v=UF8uR6Z6KLc